Những nội dung đổi mới cơ bản trong chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay?

Please follow and like us:

Câu hỏi: Những nội dung đổi mới cơ bản trong chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay?

Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mức lạm phát lên tới trên 700% năm 1986. Nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa hoặc giải thể, hàng chục vạn công nhân dời bỏ dây chuyền sản xuất, đổ vỡ tín dụng liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi gây ảnh hưởng rất xấu tới tình hình kinh tế xã hội. Trong khi đó, hàng loạt các ngành có ưu thế như : công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công lắp ráp… lại không được Nhà nước quan tâm đúng mức, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và tất cả đều ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Đại hội Đảng VI đã đề ra chính sách đầu tư quốc tế với mục tiêu nhằm tận dụng nguồn vốn từ nước ngoài nhằm fát triển các ngành sản xuất trong nước.

  1. Mô hình chính sách: tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI
  2. Nội dung đổi mới

Chính sách đầu tư theo lĩnh vực

  • Lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư bao gồm:
  • Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thủy sản, sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, Sử dụng nhiều lao động,Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng và các dự án quan trọng, Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục và thể thao,Những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ khác
  • Các lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Việt Nam

Phát thanh, truyền hình.Sản xuất, xuất bản và phân phối các sản phẩm văn hoá.Khai thác, chế biến khoáng sản.Thiết lập hạ tầng mạng viễn thông, truyền dẫn phát sóng, cung cấp dịch vụ viễn thông và internet.Xây dựng mạng bưu chính công cộng; cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát.Đánh bắt hải sản.Sản xuất thuốc lá.Kinh doanh bất động sản.Đầu tư trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối.Giáo dục, đào tạo.Bệnh viện, phòng khám.

  • Các lĩnh vực đầu tư khác trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cam kết hạn chế mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài.

Chính sách đầu tư theo đối tác

  • Khuyến khích tất cả các nhà đầu tư thuộc tất cả các quốc gia và khu vực trên thế giới đầu tư vào VN.Có nhiều chính sách ưu đãi với các nhà đầu tư là Việt Kiều (thủ tục cư trú lâu dài, mua nhà, thuế suất)

Chính sách đầu tư theo địa bàn

  • Khuyến khích các dự án ĐT ở các vùng sâu, vùng xa có điều kiện KT khó khăn ,Chính sách ưu đãi riêng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào KCN, KCX, KCNC và khu KT
  1. các biện pháp thực hiện

Thứ nhất là : Hoàn thiện hành lang pháp lý thu hút FDI

Tháng 12/1987, ban hành Luật FDI tại VN (có hiệu lực 1/1/1988), tạo ra khung pháp lý quan trọng, luật này khá thông thoáng , cởi mở có nhiều ưu đãi nhất so với các nước trong khu vực.Tuy nhiên do ban hành lần đầu tiên nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết và còn chứa đựng những điều trái với thông lệ quốc tế.

  1. Trong quá trình thực hiện, Luật đầu tư nước ngoài ngày càng được hoàn thiện thông qua việc ban hành các văn bản bổ sung và tiến tới ban hành luật đầu tư chung nhằm khắc phục những hạn chế của Luật đã ban hành đồng thời đưa ra những điều chỉnh cho phù hợp với thay đổi của mục tiêu phát triển trong nước và bối cảnh thế giới. Tiến tới xây dựng một khung pháp luật về đầu tư thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế.

– 1990: Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã qua sửa đổi và bổ sung.( Luật này cho phép các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài.Luật này tiếp tục được sửa đổi và bổ sung theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài huy động vốn và đầu tư vào các lĩnh vực tại Việt Nam, mở rộng thêm hình thức đầu tư.

– 1/1998: Chính phủ đã ban hành nghị định 10/CP về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

– 11/2005 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư chung

Thứ hai là điều chỉnh và sửa đổi mức thuế cho phù hợp

  • Trước năm 2004, nộp thuế thu nhập DN: DN có vốn ĐTNN: 25%; DN trong nước: 32%
  • Kể từ 1/1/2004 (Luật thuế thu nhập DN): thuế TNDN được áp dụng chung cho cả DN có vốn ĐT nước ngoài và DN trong nước: 28%.
  • Áp dụng mức thuế ưu đãi cho các lĩnh vực và địa bàn được khuyến khích đầu tư (thuế suất 10%, 15%, giảm 50% thuế, …).
  • Miễn thuế VAT đối với hàng hóa tạo ra tài sản cố định trong các DN có vốn ĐTNN.

– Ngoài ra còn điều chỉnh đến miễn các loại thuế khác như thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu

Thứ ba là Quy định về đất đai

  • Được quyền sử dụng đối với đất đai (thuê)
  • Miễn giảm thuế đất đai khi đầu tư vào những vùng khu vực khuyến khích đầu tư, các DN BOT.
  • Được quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất để vay vốn.
  • Thời gian hoạt động của mỗi dự án: thông thường không quá 50 năm; trường hợp cần thiết không quá 70 năm.

Thứ tư là Quy định về lao động

  • Công dân VN được ưu tiên tuyển dụng vào các DN có vốn ĐTNN
  • Thuê lao động trong nước, lao động nước ngoài làm công việc quản lý, lao động kỹ thuật và chuyên gia theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Quyết định về tiền lương và mức lương tối thiểu của người lao động  theo quy định của pháp luật về lao động.
  • Thành lập tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Thứ 5là Quy định hình thức đầu tư và tỷ lệ góp vốn

Về quy mô, hình thức đầu tư :

  • Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
  • Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
  • Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT
  • Đầu tư phát triển kinh doanh.
  • Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt Nam.
  • Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Luật đầu tư, pháp luật về cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
  • Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.

Thứ 6 là Cải cách hành chính trong thẩm định & cấp giấy phép ĐT và thhành lập ủy ban chống tham nhũng

  • Thực hiện chính sách “một cửa”
  • Giảm thời gian thẩm định và cấp giấy phép (dự án < 300 tỷ đồng: 15 ngày; Dự án > 300 tỷ đồng: 30-45 ngày).
  • NĐ 108/2006/NĐ-CP đã trao cho chính quyền ĐP quyền tự quyết đối với các dự án có vốn ĐTNN < 300 tỷ đồng (trừ lĩnh vực ĐT có điều kiện và các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của TT-CP)

Thứ 7 Tăng cường hoạt động ngoại giao và đầu tư cơ sở hạ tầng

Thứ 8 Các biện pháp xúc tiến đầu tư

  • Tổ chức các buổi gặp gỡ giữa các nhà quản lý, lãnh đạo với các nhà ĐTNN
  • Thành lập trung tâm XTĐT (miền Bắc, miền Trung, miền Nam, các trung tâm trực thuộc các Sở, TP lớn…)

Thứ 9 Bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2006

  • Các công cụ biện pháp khác

 

***THÊM : Đánh giá: Những thành công, hạn chế của Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua và định hướng thời gian tới

Thành công

  1. FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1991 – 2000 là 30%, 2001 – 2005 là 16%, 2006 – 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP thời kỳ 2001 – 2005 là 14,5%, tăng lên 20% năm 2010; nộp ngân sách nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng cả 5 năm 2001 – 2005 (3,5 tỷ USD). FDI tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, có tốc độ tăng khá cao, 2001- 2010 tăng 17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3%/năm. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, 2001 – 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 – 2010 là 154,9 tỷ USD, bằng 2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô).

  1. Góp phần hình thành nhiều ngành Kinh tế và các khu đô thị hiện đại

FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê… Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư.

  1. Tạo công ăn việc làm

Một thành tựu khác, tính đến cuối  năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.

Hạn chế

  1. Trước hết là hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư, kinh doanh

Đối với DN có vốn ĐTNN vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ.Trên thực tế, hơn 20 năm qua là quá trình vừa nghiên cứu chính sách, vừa tiếp nhận dòng vốn, triển khai các hoạt động liên quan đến ĐTNN. Cơ quan quản lý phải thường xuyên ban hành, điều chỉnh hệ thống văn bản để tạo ra một khung pháp lý phù hợp nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, ở từng thời điểm những quy định về thuế, hải quan, điều kiện ưu đãi… vẫn tạo ra cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn DN xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.

  1. Trách nhiệm của cơ quan chính quyền, nhà quản lý

Việc phân cấp toàn bộ cho UBND các địa phương và Ban Quản lý khu công nghiệp – khu chế xuất trong quản lý ĐTNN là chủ trương đúng, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm cho địa phương trong quản lý hoạt động ĐTNN.Song, trong điều kiện một số quy hoạch chưa đồng bộ, việc phân cấp đang bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, nhận thức về thu hút và quản lý vốn ĐTNN tại các địa phương chưa đồng nhất, có khi nóng vội, thiên về lợi ích trước mắt, chưa tính đến vấn đề chiến lược. Một số nơi còn chạy theo số lượng thu hút đầu tư mà thiếu quan tâm đến chất lượng, ảnh hưởng đến cân đối tổng thể của nền kinh tế. Bài học về cấp phép ồ ạt các dự án sân gôn, dự án khai thác khoáng sản và trồng rừng cần được nhìn nhận, rút kinh nghiệm nghiêm túc. Người ta vẫn chưa quên những thông tin về quy mô vốn của một số dự án được “thổi” lên đầy hứa hẹn tới hàng chục tỷ USD nhưng cuối cùng chỉ là “hình như” hoặc “dự định”… Ở đây cũng có vấn đề yếu kém về trình độ thẩm định và mỏng về đội ngũ những người làm công tác quản lý ĐTNN. Vai trò điều phối, kiểm soát, hướng dẫn của các bộ, ngành còn những hạn chế, thiếu các quy hoạch hoặc quy hoạch không cụ thể, đôi lúc lúng túng trước yêu cầu kết hợp hài hoà giữa lợi ích địa phương với lợi ích tổng thể của quốc gia.

  1. Vấn đề về môi trường

Các cơ quan quản lý chỉ ra rằng, quá trình hoạt động của nhiều dự án ĐTNN ở Việt Nam là nguyên nhân trực tiếp gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, đặc biệt là nguồn nước, không chỉ gây thiệt hại cho sản xuất mà còn gây bất ổn xã hội, phương hại đến sức khoẻ cộng đồng cùng những hệ luỵ lâu dài mà chưa thể “đong đếm” một sớm một chiều. Trường hợp Công ty Vedan là minh chứng cụ thể.Đây là vấn đề cần được quan tâm rút kinh nghiệm từ khâu rà soát, thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đến triển khai thực hiện, cũng như quá trình hoạt động của dự án.

  1. Tiếp nhận công nghệ

Nhìn chung công nghệ áp dụng ở Việt Nam ở các dự án ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành trong nước. Tuy vậy, mức độ hiện đại chưa thể so với mặt bằng chung của DN ở chính quốc, chưa đáp ứng yêu cầu tiếp thu công nghệ nguồn – công nghệ hiện đại để đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH. Cá biệt, có nhà đầu tư đã lợi dụng việc thiếu các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, sự yếu kém trong kiểm tra giám sát để nhập thiết bị lạc hậu hoặc không phù hợp vào Việt Nam.Sự chuyển giao công nghệ mới, hiện đại cho đối tác Việt Nam sau 20 năm chỉ dừng lại mức rất khiêm tốn. Bài học về sự thất bại trước mục tiêu phát triển ngành công nghiệp ô tô đích thực ở Việt Nam thông qua các dự án ĐTNN là một ví dụ, khi đến nay có tới hơn 10 dự án ô tô có vốn nước ngoài chủ yếu dừng lại ở những công đoạn lắp ráp linh kiện nhập khẩu, mức độ nội địa hoá chưa đạt 10%.

  1. Tiến độ dự án chậm do vốn thực hiện không đầy đủ, liên tục

Mức vốn thực hiện trong tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án chưa thật sự thuyết phục, trong đó không ít trường hợp chậm triển khai các hạng mục, dẫn đến chậm tiến độ hoạt động đủ công suất hoặc kéo dài giai đoạn đầu tư, hoàn chỉnh cho dây chuyền sản xuất. Đến nay, cả nước đã tiếp nhận gần 200 tỷ USD vốn ĐTNN đăng ký nhưng mới có khoảng hơn 80 tỷ USD được giải ngân, một phần lớn vốn vẫn tồn tại dưới dạng “tiềm ẩn” chưa thể phát huy trong sản xuất, kinh doanh, nhất là không tạo ra được những đóng góp thoả đáng khi nền kinh tế cần được tiếp sức.

Định hướng

Năm 2012, tình hình kinh tế quốc tế biến động theo chiều hướng không thuận lợi, giá cả thị trường thế giới có xu hướng giảm, nợ công ở nhiều nước vẫn là nguy cơ lớn. Bà Christine Lagarde, Giám đốc quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: “Kinh tế thế giới đang ở trong trạng thái hiểm nghèo”.

Tuy vậy, cũng có dự báo về khả năng phục hồi kinh tế của các nước lớn, khu vực Đông Á vẫn dẫn đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch thành trung tâm phát triển kinh tế thế giới.

Trong bối cảnh đó, Báo cáo đầu tư quốc tế 2011 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc ( UNCTAD) dự báo FDI quốc tế năm 2012 là 1.700 tỷ USD, cao hơn năm 2011 (1.400-1.600 tỷ USD). Trong khi đó, con số này của năm 2013 là 1.900 tỷ USD, bằng năm cao nhất – 2007. Lần đầu tiên FDI vào các nước đang phát triển và đang chuyển đổi chiếm gần 50% FDI thế giới.

Việt Nam được chuyên gia kinh tế đánh giá là quốc gia dễ bị tổn thương nhất trong các nền kinh tế châu Á trước sự biến động của kinh tế thế giới, vì tình trạng lạm phát cao, doanh nghiệp chưa đủ mạnh, thâm hụt ngân sách lớn và hoạt động của hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Năm 2012, nền kinh tế nước ta vừa phải khắc phục hậu quả của năm 2011, vừa bắt đầu tái cơ cấu kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Việt Nam đồng thời đứng trước thời cơ lớn khi quan hệ đối ngoại với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Ấn Độ được nâng cấp; ASEAN đang tiến tới Cộng đồng chung. Việt Nam không chỉ được nhiều nhà đầu tư nhận định là có ưu thế về ổn định chính trị, an ninh xã hội, mà trước tình hình thiên tai, như động đất và sóng thần ở Nhật Bản, lũ lụt kéo dài nhiều tháng ở Thái Lan, cũng đã được nhiều doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn là địa điểm đầu tư thích hợp để bảo đảm hoạt động sản xuất và kinh doanh lâu dài.

Cần khẳng định rằng, FDI tiếp tục là nguồn vốn quốc tế quan trọng nhất đối với Việt Nam, khi viện trợ phát triển (ODA) đang có xu hướng giảm, khi đầu tư gián tiếp khá bấp bênh. Chính phủ cần đưa ra thông điệp rõ ràng về định hướng FDI mới chuyển sang chính sách nâng cấp FDI, coi trọng hơn chất lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội.

Chính sách nâng cấp FDI được hình thành theo các hướng ưu tiên dự án công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ hiện đại, xây dựng khu kinh tế đặc biệt, thiết lập mối liên kết giữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) hàng đầu thế giới từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) với doanh nghiệp trong nước nhằm làm cho các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi nhờ vào hợp tác, phân công về công nghệ và thị trường với TNCs; khuyến khích TNCs hợp tác với các cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề trình độ cao, các tổ chức nghiên cứu khoa học để nâng cao  trình độ và năng lực của các đơn vị đó.

Cụ thể:

Một là, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thực tế để cung cấp cho các doanh nghiệp, trong đó có khu vực FDI.

Hai là, xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển công nghiệp giai đoạn 2011 -2020, từ đó chọn 6 – 7 ngành quan trọng nhất ưu tiên đầu tư.

Ba là, nghiên cứu đề xuất điều chỉnh một số loại giá và dịch vụ công được quy định quá lâu, quá thấp so với chi phí và mặt bằng giá chung, nhằm tạo môi trường bình đẳng thu hút nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác, đồng thời tạo nguồn vốn để tái đầu tư phát triển các dịch vụ công do Nhà nước quản lý.

Bốn là, giảm tỷ lệ đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội và nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư công; thu hút mạnh đầu tư của khu vực tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài. Trong thời gian tới, Nhà nước sẽ chỉ đầu tư vào các dự án không hoặc khó có khả năng hoàn vốn, dành các dự án hoàn vốn để thu hút khu vực tư nhân. Trên tinh thần đó, vốn nhà nước chỉ tập trung: (i) đối ứng cho các dự án tư nhân (ví dụ như thực hiện giải phóng mặt bằng) hoặc tham gia phương án tài chính theo hình thức BOT, PPP hoặc chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp và (ii) xây dựng kết cấu hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện, củng cố công tác phân cấp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động này trong tình hình mới.

Trước mắt, trong năm 2012, sẽ tiếp tục tăng cường, củng cố và đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI trên các mặt sau:

Về xây dựng chính sách, tiếp tục rà soát, nghiên cứu và đề xuất sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, rõ ràng nhằm một bước hoàn thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam theo hướng một mặt tạo thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng mặt khác phải đảm bảo công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Cần đổi mới đồng bộ về thể chế, luật pháp, công tác quy hoạch, quản lý nhà nước như xúc tiến đầu tư, thẩm định, cấp phép, hướng dẫn, triển khai dự án, theo dõi, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất – kinh doanh, cải tiến phân cấp quản lý, thiết lập hệ thống thu thập và xử lý thông tin về FDI.

Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cần được sửa đổi cơ bản bởi vì đã bộc lộ nhiều nhược điểm đang cản trở hoạt động FDI. Một số chuyên gia kiến nghị,  xây dựng Luật Doanh nghiệp mới với những điều khoản đáp ứng đòi hỏi đầu tư, kinh doanh và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, đủ chi tiết để điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Nghị định của Chính phủ chỉ để hướng dẫn thi hành luật, không chứa đựng nội dung luật như hiện nay, tốt nhất là không có thông tư của các bộ.

Đối với Luật Đầu tư năm 2005, nhiều ý kiến nhận xét rằng, nội dung của luật này trùng lặp với nhiều luật khác, do vậy nên hình thành Chương Đầu tư trong Luật Doanh nghiệp, bởi vì đầu tư là hoạt động chính của doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng, trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 không chú ý đặc điểm của FDI và doanh nghiệp FDI, nên đã không điều chỉnh được mọi hành vi liên quan đến FDI, làm giảm hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Do vậy, Luật Doanh nghiệp mới cần khắc phục nhược điểm đó.

Nghiên cứu chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với định hướng thu hút và sử dụng FDI, theo đó chính sách ưu đãi sẽ phải đi đôi với lĩnh vực, ngành nghề, tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể.

Về công tác xúc tiến đầu tư, nghiên cứu đổi mới căn bản phương thức xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng điểm vào các đối tác tiềm năng, đảm bảo tính thống nhất, liên vùng, liên ngành và mang tính chuyên đề. Hơn thế, trước thực trạng nhiều doanh nghiệp FDI đang gặp khó khăn do tác động từ khủng hoảng kinh tế thế giới và lạm phát cao trong nước, thì Chính phủ và chính quyền các cấp cần tiếp cận, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Đó chính là cách xúc tiến đầu tư tốt nhất, vì chính các doanh nghiệp này sẽ quảng bá rộng rãi chính sách và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước ra bên ngoài. Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào 500 TNCs hàng đầu thế giới đối với dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thường xuyên cập nhật thông tin về điều kiện đảm bảo đầu tư theo yêu cầu của từng TNCs thay cho những cuộc hội thảo đông người kém hiệu quả. Sau khủng hoảng kinh tế thế giới, TNCs điều chỉnh thị trường đầu tư, có thể Việt Nam không còn được lựa chọn hoặc được đưa vào diện ưu tiên, do đó cần theo dõi để biết được chiến lược đầu tư mới của  TNCs.

Theo một số nghiên cứu gần đây, do khó khăn tại châu Âu và Hoa Kỳ, đã bắt đầu có sự chuyển dịch dòng vốn FDI từ châu Âu sang châu Á. Đồng thời, sau sự kiện động đất và sóng thần, các nhà đầu tư Nhật Bản đang tìm kiếm thị trường đầu tư mới ở khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam. Do đó, hoạt động  xúc tiến đầu tư trong thời gian tới cần chủ động hơn để tận dụng cơ hội này.

Về công tác cấp phép, chú trọng xem xét, đánh giá lợi ích kinh tế – xã hội của dự án, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến công nghệ, môi trường sinh thái, phát triển nguồn nhân lực, tác động đến cộng đồng dân cư, sự liên kết với doanh nghiệp trong nước, thị trường, đối tác…

Thực hiện Chỉ thị 1617/CT-TTg ngày 19/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ, thời gian tới, các cơ quan sẽ nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí về công nghệ, môi trường, sử dụng tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, suất đầu tư tối thiểu/diện tích đất sử dụng đối với dự án sử dụng nhiều đất… làm cơ sở cho việc cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Về công tác quản lý sau cấp phép, cần tiếp tục tăng cường không chỉ ở các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ở địa phương, mà cả sự tham gia của các bộ, ngành, liên ngành theo các chuyên đề. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động đầu tư để thúc đẩy giải ngân.

Về công tác đối thoại chính sách, tiếp tục củng cố, tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác này, không chỉ thông qua các cuộc đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, mà còn với các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương, với các bộ, ngành ngành liên quan nhằm xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp và trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như đưa ra các hướng giải quyết của các cơ quan quản lý nhà nước. Các bộ lập và công bố quy hoạch ngành kinh tế – kỹ thuật đủ chi tiết, gắn với quy hoạch vùng lãnh thổ, xây dựng tiêu chuẩn, định mức để hướng dẫn chính quyền địa phương thực hiện, bảo đảm việc phân cấp quản lý vừa phát huy được tính năng động, sáng kiến của tỉnh, thành phố, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia. Trên cơ sở đó, chuyển trọng tâm quản lý nhà nước đối với FDI sang hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra doanh nghiệp khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động theo đúng quy định luật pháp.

Hiện nay, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đang xây dựng Trung tâm Thông tin được nối mạng với các sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý KCN, KKT, doanh nghiệp FDI, hải quan, cơ quan thuế, ngân hàng để khắc phục nhược điểm thiếu thông tin, không cập nhật, nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp xử lý kịp thời đối với hoạt động FDI trong cả nước.

Trên đà thuận lợi cơ bản là đã tạo được sự thống nhất cao về nhận thức trong cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị 1617/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có thể tin tưởng rằng, FDI vẫn sẽ là điểm sáng trong bức tranh kinh tế của Việt Nam năm 2012 và có những đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước.

Tăng hiệu quả vốn đầu tư

Về các giải pháp trong năm 2012 và các năm tiếp theo để tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ĐTNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các bộ ngành và địa phương để quản lý ĐTNN theo hướng:

(1) Nâng cao chất lượng, hiệu quả vốn FDI;

(2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về ĐTNN;

(3) Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về ĐTNN. Đôn đốc các Bộ, ngành và các địa phương tiếp tục triển khai và thực hiện tốt các nội dung nêu tại Chỉ thị 1617/CT-TTg ngày 19/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư nước ngoài. Việc thu hút FDI sẽ không đặt nặng về lượng vốn đăng ký mà tập trung vào thúc đẩy giải ngân FDI. Thu hút FDI phù hợp với Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020.

Đồng thời, thu hút FDI có chọn lọc, định hướng vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp “xanh”, thân thiện với môi trường; lĩnh vực tạo liên kết với các khu vực kinh tế khác và liên kết vùng; công nghiệp hỗ trợ, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh; lĩnh vực công nghệ cao, đào tạo nguồn nhân lực… Hạn chế thu hút FDI trong những lĩnh vực phi sản xuất, làm gia tăng nhập siêu, sử dụng không hiệu quả tài nguyên và đất đai, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực FDI có nguyên nhân từ sự yếu kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài. Các nguyên nhân chủ yếu là:

(i) Hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và thiếu nhất quán.

Trong 25 năm qua, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động ĐTNN chưa thực sự đồng bộ, rõ ràng, các văn bản pháp luật còn chồng chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng ở các cấp.

(ii) Chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn.

Tuy các chính sách ưu đãi của ta thường xuyên được rà soát sửa đổi, bổ sung nhưng còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần thu hút đầu tư. Ví dụ: chính sách ưu đãi đối với đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ chưa có sự khác biệt, đủ sức hấp dẫn so với các ngành khác; chính sách ưu đãi vào những địa bàn cần thu hút đầu tư còn dàn trải giữa các địa bàn khác trong cả nước hoặc có khác thì cũng chưa nổi trội, chưa có tính đột phá. Bởi lẽ, trong 63 tỉnh/thành phố thì hầu hết tỉnh/thành phố nào cũng có địa bàn kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

(iii) Sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như chưa tạo điều kiện tốt để dòng vốn ĐTNN phát huy hiệu quả.

Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp.

(iv) Hạn chế về nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, nguồn nhân lực có trình độ cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp ĐTNN. Đây là hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng trong thời gian gần đây càng trở nên bức xúc hơn khi thu hút ĐTNN các dự án sử dụng công nghệ cao, hiện đại. Trong một nghiên cứu mới đây do Cục Đầu tư nước ngoài phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tiến hành, thì 32% các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng thiếu công nhân lành nghề là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho họ không sử dụng hết công suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi phí thấp của Việt Nam đang giảm dần.

(v) Sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ còn hạn chế.

Các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các doanh nghiệp ĐTNN. Do đó, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh phụ kiện đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi giá trị.

(vi) Chưa thực hiện tốt công tác phân cấp quản lý ĐTNN.  

Việc phân cấp cho UBND các địa phương và Ban quản lý KCN – KCX trong quản lý ĐTNN là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý địa phương trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đi kèm với luật pháp chính sách rõ ràng, hệ thống quy hoạch đồng bộ; năng lực của các cơ quan được phân cấp phải được nâng cao; công tác báo cáo, cung cấp thông tin của địa phương lên trung ương phải kịp thời; công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm phải được thực hiện triệt để; tăng cường sự phối hợp hàng ngang và hàng dọc giữa các cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý ở Trung ương với cơ quan quản lý ở địa phương.

Nhưng, trên thực tế, những công tác này chưa được thực hiện tốt trong thời gian qua, đồng thời có hiện tượng một số địa phương trong quá trình xử lý còn thiên về lợi ích trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, vì lợi ích địa phương mà bỏ qua lợi ích tổng thể quốc gia. Điều này, đã có những ảnh hưởng không tốt đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế, ví dụ, có địa phương cấp phép nhiều dự án thép, xi măng làm mất cân đối nguồn cung cấp điện và gây ô nhiễm môi trường.

(vii) Công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi trường của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập.

Thời gian qua, công tác này tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh những doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều doanh nghiệp, dự án ĐTNN chưa chấp hành tốt các quy định này, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường, sinh thái, ảnh hưởng lâu dài tới đời sống của người dân và làm xấu hình ảnh của ĐTNN.

(viii) Công tác xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.

Trong thời gian qua, công tác vận động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải tiến, được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài bằng các hình thức đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này chưa cao, hoạt động xúc tiến đầu tư còn giàn trải, phân tán nguồn lực, chưa tập trung vào các đối tác, lĩnh vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều phối để đảm bảo sự tập trung thực hiện đúng mục tiêu thu hút ĐTNN trong từng thời kỳ, từng địa bàn, từng đối tác.

Việt Nam đã bước sang nhóm các nước thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đang đứng trước những nhu cầu phát triển mới. Để đạt được mục được những mục tiêu phát triển mới, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 khẳng định, khu vực FDI là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Theo đó, việc thu hút ĐTNN cần tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên. Đó là, chọn lọc các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết giữa các khu vực; các ngành, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, như công nghệ cao, cơ khí, công nghệ thông tin và truyền thông, dược, công nghiệp sinh học; công nghiệp môi trường và các ngành sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật liệu mới…. Những dự án tiết kiệm nhiên liệu, không sử dụng nhiều lao động giá rẻ cũng sẽ được ưu tiên.

Bên cạnh đó, một số lĩnh vực khác cũng sẽ được tập trung thu hút đầu tư, như khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế đi liền với dịch vụ phụ trợ; công nghiệp nông nghiệp; chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, gồm cả thủy, hải sản; các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, cảng biển, sân bay cũng như các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn như y tế, giáo dục, đào tạo cũng sẽ được ưu tiên, khuyến khích thu hút đầu tư.

Tác động của viện trơ:

Ưu điểm của ODA

  • Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%năm)
  • Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm)
  • Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.

Bất lợi khi nhận ODA

Trong một số trường hợp, viện trợ vượt quá khả năng tiếp thu của một nước đang phát triển, hơn nữa có thể làm trở ngại tinh thần tự lực cánh sinh, trì hoãn cải cách cơ bản bên trong hoặc ủng hộ những lợi ích ích kỷ bên trong trái ngược với sự phân phối thu nhập.

Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh – quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị… Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế – chính trị – xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:

  • Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
  • Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
  • Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
  • Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
  • Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.

Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp… có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.

 

 

 

 

 

Please follow and like us:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *